Cuộc đời Franz_Kafka

Gia đình

Kafka hồi 5 năm tuổi.

Kafka chào đời ngày 3 tháng 7 năm 1883 ở gần quảng trường Altstädter ở Praha, khi ấy thuộc Đế quốc Áo-Hung. Gia đình ông là những người Do Thái Ashkenazi thuộc tầng lớp trung lưu. Cha ông, Hermann Kafka (1852–1931), là con thứ tư của Jacob Kafka[1][2], một người mổ thịt[b]. Ông Jacob đã đưa gia dình Kafka chuyển tới Praha từ Osek, một làng người Séc có đông dân Do Thái ở gần Strakonice ở bắc Bohemia[3]. Từ chỗ là một người chào hàng lưu động, ông vươn lên trở thành một ông chủ bán lẻ quần áo và vật trang trí, thuê tới 15 người làm thuê, sử dụng hình ảnh quạ gáy xám (trong tiếng Séc gọi là kavka) làm logo thương mại[4]. Mẹ của Kafka, Julie (1856–1934), là con gái một nhà buôn bán lẻ giàu có ở Poděbrady tên là Jakob Löwy[5] và được học hành tử tế hơn chồng bà[1]. Cha mẹ của Kafka chắc đã nói một thứ tiếng Đức pha Yiddish (đôi khi gọi là Mauscheldeutsch), nhưng do tiếng Đức là phương tiện giao tiếp xã hội nên họ hẳn đã khuyến khích con cái nói tiếng Đức cao (Hochdeutsch)[6]. Jacob và Julie có sáu người con, trong đó Franz là con cả[7]. Hai em trai của Franz, Georg và Heinrich, chết yểu trước khi Franz lên bảy; ba em gái là Gabriele ("Ellie") (1889–1944), Valerie ("Vallie") (1890–1944) và Ottilie ("Ottla") (1892–1943).

Gia đình Kafka có một người hầu gái sống cùng họ trong một căn hộ chật hẹp. Phòng của Franz thường xuyên lạnh giá. Vào tháng 11 năm 1913, gia đình chuyển tới một căn hộ rộng hơn dù trước đó Ellie và Vallie đã lấy chồng và dọn khỏi nhà cũ. Đầu tháng 10 năm 1914, không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các cô em này mất tin tức về chồng họ và lại trở về ngôi nhà mới này. Cả Ellie và Vallie giờ đã có con. Franz, khi đó ở tuổi 31, rời đến căn hộ yên tĩnh của Vallie và lần đầu tiên ra ở riêng[8].

Hermann được nhà viết tiểu sử Stanley Corngold miêu tả là một "thương gia to lớn, ích kỉ, hống hách"[9]; còn chính Franz Kafka gọi ông là "một người họ Kafka thực thụ xét về sự cường tráng, sức khỏe, ăn uống, giọng ầm ĩ, sự hùng biện, tính tự mãn, thói gia trưởng, khả năng chịu đựng, sự nhanh trí, hiểu bản chất con người"[10]. Trong những ngày buôn bán, bà Julie cũng dành có khi tới 12 giờ một ngày để tham gia cùng chồng trong việc kinh doanh của gia đình nên cả hai ông bà đều vắng nhà. Cho nên, tuổi thơ của Kafka có phần cô đơn[11] và lũ trẻ trong nhà chủ yếu được nuôi dưỡng bởi các cô giáo dạy trẻ và người hầu khác nhau. Mối quan hệ không yên ổn của Franz Kafka với người cha thể hiện rõ ràng trong bức "Thư gửi cha" (Brief an den Vater) dài hơn 100 trang, trong đó ông phàn nàn đã chịu tác động sâu sắc từ tính cách khắt khe và độc đoán của cha ông[12]; trái lại, mẹ ông ít lời và nhút nhát[13]. Hình ảnh về người cha gia trưởng có một dấu ấn rõ nét trên văn chương của Kafka[14].

Học tập

Từ 1889 tới 1893, Kafka học ở một trường tiểu học nam sinh Đức (Deutsche Knabenschule) ở Fleischmarkt (tức "chợ bán thịt"), nay là đường Masná, Praha. Nền giáo dục truyền thống Do Thái của ông kết thúc với lễ thành niên Bar Mitzvah ở tuổi 13. Kafka chưa bao giờ phục vụ lễ ở giáo đường Do Thái và chỉ cùng cha tới đó dự bốn ngày lễ chính mỗi năm[10][15][16].

Cung Kinský nơi Kafka học trung học và cha ông mở một cửa hàng.

Sau khi rời trường tiểu học năm 1893, Kafka được nhận vào một trường trung học nhà nước kiểu cổ điển nghiêm khắc, Altstädter Deutsches Gymnasium, nằm trong khuôn viên Cung Kinský ở quảng trường Altstädter. Tiếng Đức là ngôn ngữ giảng dạy, nhưng Kafka cũng nói và viết được tiếng Séc[17][18]; bởi ông học tiếng Séc ở trung học khoảng 8 năm, đạt những điểm tốt trong môn này[19]. Ông được khen ngợi về tiếng Séc của mình, nhưng chưa từng tự coi mình là thành thạo nó[20]. Ông đỗ kì thi tốt nghiệp trung học (tiếng Đức gọi là Matura) năm 1901[21].

Đăng ký vào trường Đại học Karl-Ferdinands của Praha năm 1901, ban đầu Kafka theo ngành hóa học, nhưng chuyển sang ngành luật chỉ sau hai tuần[22]. Mặc dù ông không hứng thú với lĩnh vực này nhưng nó hứa hẹn nhiều cơ hội công việc làm hài lòng cha ông. Hơn nữa, ngành luật đòi hỏi khóa học dài hơn, cho Kafka thì giờ để theo các lớp về nghiên cứu tiếng Đức và lịch sử nghệ thuật[23]. Ông cũng tham gia vào một câu lạc bộ sinh viên tên là "Hội trường Đọc sách và Giảng bài của Sinh viên tiếng Đức" (Lese-und Redehalle der Deutschen Studenten), nơi tổ chức các sự kiện văn học, đọc sách và các hoạt động khác[24]. Trong số những bạn bè của Kafka có nhà báo Felix Weltsch học triết, diễn viên Yitzchak Lowy đến từ một gia đình Do Thái nhánh Hasidic chính thống ở Warszawa, và các nhà văn Oskar BaumFranz Werfel[25].

Vào năm cuối ở đại học, Kafka gặp Max Brod, một nghiên cứu sinh ngành luật, và họ trở thành bạn suốt đời của nhau[24]. Brod sớm nhận ra rằng, mặc dù Kafka nhút nhát và hiếm khi nói, những gì ông nói ra thường sâu sắc[26]. Kafka là một độc giả nghiện sách suốt đời[27]; cùng với Brod, ông đã đọc cuốn Protagoras của Plato bằng tiếng Hy Lạp cổ dưới sự đề xuất của Brod, và các tiểu thuyết Giáo dục tình cảmSự cám dỗ thánh Anthoine của Flaubert bằng tiếng Pháp do Brod gợi ý. Ngoài ra, ông cũng quan tâm tới văn học Séc[17][18], đồng thời rất yêu thích các tác phẩm của Goethe[28][29]. Kafka nhận bằng tiến sĩ luật ngày 18 tháng 7 năm 1906[c] và làm việc một năm bắt buộc không lương như một thư ký luật cho các tòa án dân sự và hình sự[30].

Đời viên chức

Ngày 1 tháng 11 năm 1907, Kafka được tuyển dụng vào Assicurazioni Generali, một công ty bảo hiểm Ý, nơi ông làm việc gần một năm. Những thư từ trong thời kì này cho thấy ông lấy làm khổ sở với lịch làm việc – từ 8 sáng tới 6 giờ tối[31][32] – khiến cho ông khó có thể tập trung vào viết văn, một đam mê ngày càng lớn trong ông. Ngày 15 tháng 7 năm 1908, ông từ chức, và hai tuần sau tìm được một vị trí dễ chịu hơn tại Cơ quan Bảo hiểm Tai nạn Công nhân của Vương quốc Bohemia. Công việc liên quan tới việc điều tra và định mức đền bù thương tật của công nhân công nghiệp; các tai nạn như mất ngón hay cả bàn tay, chân xảy ra phổ biến ở thời đó. Giáo sư quản trị Peter Drucker ghi nhận Kafka đã phát triển một loại mũ bảo hiểm dân sự đầu tiên khi làm việc ở đây, nhưng không có bất cứ văn bản nào từ cơ quan xác nhận điều này[33][34]. Cha Kafka thường gọi nghề làm công chức bảo hiểm là một Brotberuf, nghĩa đen là "nghề kiếm ăn"; còn bản thân Kafka thường tỏ ra khinh miệt nó. Ông thăng tiến khá nhanh chóng, đảm nhiệm những chức trách bao gồm việc thực hiện và điều tra các yêu cầu bồi thường, viết báo cáo, và xử lý những thỉnh cầu từ những doanh nhân cảm thấy nhà máy của họ bị xếp vào mức rủi ro cao; điều này khiến họ tốn nhiều tiền đóng bảo hiểm[35]. Ông cũng được giao nhiệm vụ biên soạn các báo cáo cho cơ quan bảo hiểm trong vài năm ông làm ở đây. Các bản báo cáo được cấp trên của ông đón nhận tích cực[36]. Kafka thường hoàn thành công vụ vào lúc 2h chiều, do đó ông có thì giờ dành cho công việc viết văn[37]. Cha của Kafka cũng mong ông trợ giúp và tiếp quản cửa hàng bán đồ trang trí của gia đình[38]. Tuy nhiên trong những năm về sau, Kafka thường xuyên bệnh tật, khó lòng làm việc ở công ty lẫn viết lách.

Cuối năm 1911, chồng của Ellie là Karl Hermann và Kafka trở thành những đối tác ở nhà máy amiăng đầu tiên ở Praha, tức Prager Asbetwerke Hermann & Co. Ban đầu Kafka tỏ ra khá tích cực, dành nhiều thời gian rảnh cho việc kinh doanh này, nhưng về sau ông lấy làm bực bội vì nó lấn vào thời gian viết văn của ông[39]. Trong thời gian này ông cũng tìm thấy sự hứng thú và giải trí trong các cuộc biểu diễn ở nhà hát Yiddish. Sau khi thấy một đoàn sân khấu Yiddish trình diễn vào tháng 10 năm 1911, suốt sáu tháng sau đó Kafka "chìm đắm trong tiếng Yiddish và văn học Yiddish"[40]. Mối quan tâm này đóng vai trò điểm khởi đầu cho những liên hệ ngày một tăng của ông với đạo Do Thái[41]. Đó cũng là khoảng thời gian Kafka trở thành một người ăn kiêng[42]. Khoảng 1915 Kafka nhận giấy báo nhập ngũ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng cấp trên của ông trong cơ quan bảo hiểm đã sắp xếp một sự hoãn quân dịch nhờ công việc của Kafka được xem như dịch vụ công thiết yếu. Sau đó ông đã cố gắng gia nhập quân dội nhưng bị ngăn cản bởi các vấn đề y tế liên quan tới chứng lao[43]được chẩn đoán từ năm 1917[44]. Năm 1918 Cơ quan Bảo hiểm Tai nạn Công nhân cho ông nghỉ hưu do bệnh tật và ông dành hầu hết phần đời còn lại trong các viện điều dưỡng[30].

Đời tư

Kafka trải qua một đời sống tình dục khá sôi nổi. Theo Brod, Kafka bị "hành hạ" bởi ham muốn tình dục[45], còn nhà viết tiểu sử Reiner Stach khẳng định rằng cuộc đời Kafka đầy rẫy những "quan hệ lăng nhăng không ngừng" và ông bị nỗi sợ "thất bại tình ái" choán lấy[46]. Ông tới nhà thổ trong phần lớn tuổi trưởng thành của mình[47][48][49] và bị sách báo khiêu dâm lôi cuốn [45]. Bên cạnh đó, trong đời mình ông cũng có những mối quan hệ thân mật với một số phụ nữ. Ngày 13 tháng 8 năm 1912, Kafka gặp Felice Bauer, một người họ hàng của Brod, làm đại diện cho một công ty máy ghi âm ở Berlin. Một tuần sau cuộc gặp gỡ ở nhà Brod, Kafka viết trong nhật ký:

Cô FB. Khi tôi tới nhà Brod vào 13 tháng Tám, cô ấy đang ngồi ở bàn. Tôi không tò mò chút nào về việc cô là ai, đúng hơn là coi cô ấy là hiển nhiên. Khuôn mặt xương xẩu, trống vắng bộc lộ sự trống rỗng một cách công khai. Cổ trần. Một chiếc áo cánh hờ. Nhìn thì có vẻ nội trợ trong trang phục của cô nhưng, hóa ra, cô ấy không hề như vậy. (Tôi tránh khỏi cô ấy một chút bằng cách xem xét cô ấy gần như vậy....). Một cái mũi hầu như gãy. Tóc vàng hoe, có phần thẳng, không gợi cảm, cằm nặng. Khi tôi lấy ghế ngồi tôi nhìn cô ấy gần lần đầu tiên, đến lúc tôi ngồi tôi đã có một quan niệm không thể lay chuyển[50][51].

Ít lâu sau đó, Kafka viết truyện "Lời tuyên án" (Das Urteil) chỉ trong một đêm, và làm việc trong một thời kì sôi sục với tiểu thuyết "Nước Mỹ" và truyện "Hóa thân". Kafka và Felice Bauer chủ yếu liên lạc qua thư từ trong 5 năm sau đó, hiếm khi gặp nhau, và đã đính ước hai lần[52]. Các bức thư còn giữ lại được của Kafka về sau được xuất bản dưới tên [Briefe an Felice ("Thư gửi Felice") còn các bức thư của Felice không còn nữa[50][53][54]. Theo các nhà viết tiểu sử Stach và James Hawes, khoảng năm 1920 Kafka đã đính hôn lần thứ ba với Julie Wohryzek, một cô hầu phòng khách sạn nghèo khó và thất học[52][55]. Hai người thậm chí đã thuê một căn hộ và dự định ngày cưới nhưng đám cưới không thành. Trong thời gian này Kafka bắt đầu viết bản thảo cho "Thư gửi cha", người phản đối Julie do niềm tin phục quốc Do Thái của cô. Hơn nữa, trước ngày cưới dự định ông đã đi lại với một người phụ nữ khác[56]. Trong khi suốt đời ông luôn cần đàn bà và tình dục, Kafka lại thiếu tự tin, cảm thấy quan hệ tình dục là bẩn thỉu, và thấy nhút nhát - đặc biệt về cơ thể mình[30].

Stach và Brod khẳng định rằng trong thời gian Kafka biết Felice Bauer, ông có một chuyện tình với một người bạn của cô này, Margarethe "Grete" Bloch[57], một phụ nữ Do Thái đến từ Berlin. Brod đi xa hơn khi khẳng định rằng Bloch đã có một đứa con trai của Kafka, nhưng Kafka không bao giờ biết về đứa trẻ. Cậu bé không rõ tên này sinh vào khoảng 1914 hoặc 1915 và mất ở München năm 1921[58][59]. Tuy nhiên, nhà viết tiểu sử Kafka là Peter-André Alt cho rằng kể cả khi Bloch có một đứa con trai, Kafka không phải là bố nó vì hai người này chưa bao giờ ăn nằm với nhau[60][61]. Stach thì khẳng định Bloch đã có con trai, nhưng không có bằng chứng nào, dù vững chắc hay đáng ngờ, chứng tỏ Kafka là bố nó[62].

Kafka bị chẩn đoán mắc bệnh lao vào tháng 8 năm 1917, và chuyển đến sống vài tháng ở làng Zürau của Bohemia, nơi em gái ông Ottla đang làm việc ở nông trang của người anh rể Hermann. Ông cảm thấy dễ chịu ở đây và về sau mô tả thời kỳ này là những giây phút tốt đẹp nhất trong đời ông, hẳn bởi vì ông không phải gánh một trách nhiệm nào. Ông vẫn viết nhật ký và các cuốn sổ tay khổ tám. Từ những ghi chép trong các cuốn sổ đó Kafka đã trích ra 109 đoạn đánh số vào Zettel, những mảnh giấy riêng rẽ không có trật tự nào. Về sau chúng được xuất bản dưới tên "Cách ngôn Zürau hay những Suy ngẫm về Tội lỗi, Hy vọng, Khổ đau và Chính Đạo" (Die Zürauer Aphorismen oder Betrachtungen über Sünde, Hoffnung, Leid und den wahren Weg).

Năm 1920 Kafka bắt đầu một mối quan hệ nồng nhiệt với nhà văn và nhà báo người Séc Milena Jesenská. Các lá thư ông dành cho bà về sau được xuất bản dưới tên Briefe an Milena ("Thư gửi Milena")[63]. Trong một chuyến đi nghỉ tháng 7 năm 1923 tới Graal-MüritzBiển Baltic, Kafka gặp Dora Diamant, một nữ giáo viên mẫu giáo 25 tuổi đến từ một gia đình Do Thái chính thống. Hy vọng có thể cách ly khỏi ảnh hưởng của gia đình để tập trung vào việc viết văn, Kafka chuyển tới Berlin để sống với Diamant. Cô trở thành tình nhân của ông và là người khiến ông bắt đầu quan tâm tới kinh Talmud[64]. Thời gian này ông làm việc với bốn truyện ngắn mà ông định in dưới tên Ein Hungerkünstler ("Nghệ sĩ nhịn đói")[63].

Tính cách

Kafka thường lo sợ người ta sẽ thấy ông gớm ghiếc cả về tinh thần lẫn cơ thể. Tuy nhiên, những ai gặp ông thì nhận thấy ông có cách cư xử điềm đạm và ít lời, một trí tuệ nổi bật và ít óc hài hước; họ cũng thấy ông điển trai một cách trẻ thơ, bất chấp vẻ ngoài khắc khổ[65]. Brod so sánh ông với Heinrich von Kleist, lưu ý rằng cả hai nhà văn đều có năng lực miêu tả rõ ràng và hiện thực một hoàn cảnh với những chi tiết chính xác[66]. Kafka là một trong những người thú vị nhất mà Brod đã gặp; Kafka thích chia sẻ tâm trạng với bạn bè, nhưng cũng giúp họ trong những lúc khó khăn với những lời khuyên đáng giá[67]. Theo Brod, ông là một người đam mê kể truyện, có thể diễn đạt lời nói của mình như thể nó là âm nhạc[68]. Brod cho rằng hai nét tính cách nổi bật nhất của Kafka là "sự chân thật tuyệt đối" (absolute Wahrhaftigkeit) và "sự ngay thẳng đúng đắn" (präzise Gewissenhaftigkeit)[69][70]; và rằng ông khám phá chi tiết, cái thầm kín một cách sâu sắc với một tình yêu và sự chính xác đến nỗi sự vật hiển lộ không ngờ, có vẻ lạ lùng, nhưng đơn giản là đúng (nichts als wahr)[71].

Mặc dù Kafka ít tỏ ra đam mê luyện tập khi còn bé, sau này ông lại quan tâm tới các trò chơi hay hoạt động thể chất[27], và tỏ ra là một tay cưỡi ngựa, bơi và đua thuyền cừ[69]. Vào cuối tuần ông thường cùng bạn bè tiến hành những cuộc đi bộ đường trường, do chính Kafka lên kế hoạch[72]. Các mối quan tâm khác của ông bao gồm trị liệu bằng tập luyện, các hệ thống giáo dục hiện đại như phương pháp Montessori hay những phát minh tân kì như máy bay và điện ảnh[73]. Đặc biệt, việc viết văn rất quan trọng với Kafka; ông xem nó như một "dạng lời cầu nguyện"[74]. Ông rất nhạy cảm với tiếng ồn và ưa sự tĩnh lặng khi viết văn[75].

Nhà tâm lý học Marino Pérez-Álvarez từng tuyên bố rằng Kafka có thể mắc một chứng rối loạn nhân cách[76]. Văn phong của ông, người ta khẳng định, không chỉ trong "Hóa thân" mà cả các tác phẩm khác, dường như thể hiện những triệu chứng rối loạn nhân cách từ mức nhẹ tới trung bình, điều giải thích nhiều tác phẩm gây kinh ngạc của ông[77]. Nỗi khổ não trong ông có thể thấy trong trang nhật ký ngày 21 tháng 6 năm 1913[78]:

Thế giới thật khủng khiếp chưa trong đầu tôi! Nhưng làm sao để giải phóng chính tôi và giải phóng chúng mà không xé toạc ra. Và xé ra nghìn lần trong tôi còn tốt hơn là nó được kìm lại hoặc chôn cất. Chính vì việc đó mà tôi sống trên đời này, điều này khá rõ ràng với tôi.[78]

và trong Cách ngôn Zürau số 50:

Người ta không thể sống mà không có một niềm tin thường trực vào những thứ bất hoại bên trong hắn ta, mặc dù cả thứ bất hoại đó và cả niềm tin của anh ta vào nó có thể luôn luôn bị chôn giấu kín với hắn.[79]

Tuy Kafka chưa từng kết hôn nhưng ông rất trân trọng hôn nhân và trẻ con. Ông có một số bạn gái[80], tuy nhiên một vài nhà nghiên cứu vẫn suy đoán về khuynh hướng giới tính của ông; những người khác đề xuất rằng ông có thể đã mắc một chứng rối loạn dinh dưỡng. Bác sĩ Manfred M. Fichter của Bệnh viện thực hành về Tâm thần của Đại học München đưa ra "bằng chứng cho giả thuyết rằng nhà văn Franz Kafka mắc một bệnh chán ăn tâm thần không điển hình"[81] và rằng Kafka không chỉ cô độc và thất vọng mà còn "đôi khi có khuynh hướng tự sát"[82]. Trong cuốn sách "Franz Kafka, the Jewish Patient" năm 1995, Sander Gilman đã tìm hiểu "tại sao một người Do Thái có thể bị xem là bị 'ám ảnh về sức khỏe'[d] hoặc 'đồng tính luyến ái' và làm sao Kafka kết hợp những khía cạnh theo những cách hiểu này về người đàn ông Do Thái vào sự tự nhận thức và văn chương của chính ông"[83]. Kafka được cho là đã cố tự tử ít nhất một lần, vào cuối năm 1912[84].

Quan điểm chính trị

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất[85], Kafka đã tham dự một số cuộc họp của câu lạc bộ Mladých, một tổ chức vô chính phủ, chống tăng lữ, chống quân phiệt[86]. Hugo Bergmann, người học cùng trường với Kafka cả tiểu học lẫn trung học, cắt đứt quan hệ với Kafka vào năm cuối đại học (1900-1901) bởi theo ông này: "Franz đã trở thành một người xã hội chủ nghĩa, còn tôi trở thành một người phục quốc Do Thái năm 1898. Sự tổng hợp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phục quốc Do Thái không hề tồn tại"[87]. Bergmann kể rằng Kafka đã cài một bông cẩm chướng đỏ tới trường để thể hiện sự ủng hộ cho chủ nghĩa xã hội[87]. Trong một trang nhật ký, Kafka đã nhắc tới một triết gia vô chính phủ nhiều ảnh hưởng là Peter Kropotkin: "Đừng quên Kropotkin!"[88]. Sau này khi bàn về những người vô chính phủ Séc, ông khẳng định: "Tất cả bọn họ mưu cầu vô ích để hiện thực hóa hạnh phúc con người. Tôi cảm thông với họ. Nhưng... tôi không thể nào tiếp tục bước tới cùng họ lâu dài được"[89].

Trong thời kỳ cộng sản cầm quyền, di sản của tác phẩm Kafka đối với khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu được đem ra tranh cãi gay gắt. Các ý kiến thay đổi từ chỗ cho rằng ông chế nhạo sự mục nát quan liêu của Đế quốc Áo-Hung đang suy sụp tới chỗ đề xuất rằng ông là hiện thân của sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội[90]. Một điểm mấu chốt nữa là chủ đề sự ghẻ lạnh trong văn ông; trong lúc lập trường chính thống là sự mô tả của Kafka về sự ghẻ lạnh không còn có ý nghĩa cho một xã hội được cho là đã loại bỏ sự ghẻ lạnh giữa người với người, một hội thảo năm 1963 tổ chức ở Liblice, Tiệp Khắc để tưởng niệm 80 năm ngày sinh của ông đánh giá lại tầm quan trọng còn tồn tại của sự minh họa của Kafka về xã hội quan liêu[91]. Bản thân việc Kafka có phải là một nhà văn chính trị hay không vẫn là một vấn đề tranh cãi[92].

Quan điểm về Do Thái

Lớn lên, Kafka là một người Do Thái nói tiếng Đức ở Praha, một thành phố do những người nói tiếng Séc và không phải dân Do Thái, thống trị[93]. Ông bị mê hoặc sâu xa bởi nhánh Do Thái Đông Âu, những người ông nghĩ là sở hữu một sức mạnh của đời sống tinh thần mà người Do Thái ở phương Tây không có được. Trong nhật ký của ông có rất nhiều chỗ nhắc đến các tác giả tiếng Yiddish[94]. Tuy nhiên ông nhiều lần xa lánh khỏi đạo Do Thái và đời sống Do Thái: "Tôi có điểm chung gì với những người Do Thái? Tôi khó có thứ gì giống với chính tôi và nên đứng rất kín đáo ở một góc, bằng lòng rằng mình còn có thể thở"[95].

Hawes đề xuất rằng Kafka, mặc dù nhận thức rõ tính Do Thái của chính ông, không đưa nó vào tác phẩm của ông, mà theo Hawes, thiếu các chủ đề, cảnh hay nhân vật Do Thái[96][97][98]. Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Harold Bloom, mặc dù Kafka không thoải mái với di sản Do Thái của mình, ông là một nhà văn Do Thái tinh hoa[99]. Lothar Kahn cũng khẳng định tương tự: "Sự hiện diện của Do Thái tính trong tác phẩm của Kafka không còn là vấn đề bàn cãi"[100]. Pavel Eisner, một trong những người dịch Kafka đầu tiên, diễn giải tác phẩm kinh điển "Vụ án" như hiện thân của "mức độ hiện diện của người Do Thái ở Praha... vai chính Josef K. là bị bắt giữ (một cách tượng trưng) bởi một người Đức (Rabensteiner), một người Séc (Kullich) và một người Do Thái (Kaminer). Ông bênh vực cho "tội lỗi vô tội" (guitless guilt) thấm đẫm người Do Thái trong thế giới hiện đại, mặc dù không có gì chứng tỏ ông là một người Do Thái"[101].

Trong tiểu luận "Nỗi buồn ở Palestine?!", Dan Miron khám phá mối liên hệ của Kafka với chủ nghĩa phục quốc Do Thái: "Dường như những người tuyên bố rằng có một mối quan hệ như thế và rằng chủ nghĩa phục quốc Do Thái đóng một vai trò trung tâm trong đời sống và tác phẩm của ông, và những người phủ nhận hoàn toàn mối quan hệ hay gạt bỏ tầm quan trọng của nó, đều sai. Sự thật nằm ở vị trí đâu đó rất khó nắm bắt giữa hai thái cực đơn giản hóa này"[94]. Kafka từng xem xét chuyển tới Palestine với Felice Bauer, và sau đó là với Dora Diamant. Khi sống ở Berlin ông học tiếng Hebrew, thuê một người bạn của nhà Brod đến từ Palestine, Pua Bat-Tovim, dạy gia sư cho ông[94] và tham dự các lớp học của giáo sĩ Julius Grünthal ở Cao đẳng Do Thái học Berlin[102].

Mộ Kafka ở nghĩa trang Do Thái Mới, Praha.

Livia Rothkirchen gọi Kafka là "nhân vật biểu tượng của thời đại ông"[101]. Những người cùng thời với ông bao gồm nhiều nhà văn Do Thái nhạy cảm với văn hóa Đức, Séc, Áo và Do Thái. Theo Rothkirchen, "Tình huống này cung cấp cho văn chương của họ một nhãn quan toàn thế giới và năng lực tán tụng bên cạnh sự trầm ngâm siêu hình siêu việt. Một ví dụ lừng lẫy là Franz Kafka"[101].

Qua đời

Khi bệnh lao thanh quản trầm trọng hơn vào tháng 3 năm 1924, Kafka quyết định từ Berlin trở về Praha[52], nơi gia đình ông đã chăm sóc cho ông, đặc biệt là người em gái Ottla. Ông tới viện điều dưỡng của Bác sĩ Hoffmann ở Kierling gần Vienna để điều trị vào ngày 10 tháng Tư[63] và mất ở đó ngày 3 tháng 6 năm 1924. Ông chết vì thiếu ăn: các vấn đề về cổ họng Kafka khiến cho việc ăn uống gây đau đớn quá mức cho ông, và thời đó kĩ thuật truyền chất dinh dưỡng ngoài ruột chưa được phát triển nên không có cách nào để cho ông ăn cả[103][104]. Thi hài của ông được mang trở lại Praha nơi ông được chôn vào ngày 11 tháng 6 năm 1924, tại nghĩa trang Do Thái Mới (Novém židovském hřbitově)[48]. Kafka ít có tên tuổi trong suốt cuộc đời mình, và ông cũng không coi danh tiếng là quan trọng. Tuy nhiên, ông sớm trở nên nổi danh sau khi qua đời[74].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Franz_Kafka http://www.literaturhaus.at/headlines/1999/01/142/ http://www.smh.com.au/articles/2006/08/21/11560124... //nla.gov.au/anbd.aut-an35256821 http://www.atlegerhardsen.com/pages/lothar_hempel/... http://www.believermag.com/issues/200603/?read=art... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/309545 http://dokumente-online.com/kunst-und-kuenstlerver... http://www.ft.com/cms/s/2/bfaf51ba-e05a-11de-8494-... http://www.haaretz.com/news/sadness-in-palestine-1... http://www.jhom.com/bookshelf/kafka/intro.html